Án treo là một chế định trong Luật hình sự Việt Nam ra đời từ rất sớm thể hiện tính nhân đạo, hướng thiện, trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập thì ngày 13 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ban hành Sắc lệnh số 33c tại Điều VI của Sắc lệnh quy định “Nếu có những lý do chính đáng khoan hồng vì ít tuổi, vì biết hối quá, vì lầm lẫn, v.v…, thì toà án có thể cho tội nhân được hưởng án treo. Nghĩa là bản án làm tội tuyên lên, nhưng không thi hành; nếu trong năm năm bắt đầu từ ngày tuyên án, tội nhân không bị Toà án quân sự làm tội một lần nữa về việc mới thì bản án đã tuyên sẽ huỷ đi, coi như là không có; nếu trong hạn 5 năm ấy, tội nhân bị kết án một lần nữa trước Toà án quân sự thì bản án treo sẽ đem thi hành.”.
Tại Điều 10 của Sắc lệnh tổ chức các Tòa án quân sự của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà số 21 ngày 14 tháng 2 năm 1946 cũng quy định “Khi phạt tù tòa có thể cho tội nhân được hưởng án treo nếu có những lý do đáng khoan hồng. Bản án xử treo sẽ tạm đình việc thi hành. Nếu trong 5 năm bắt đầu từ ngày tuyên án, tội nhân không bị tòa án quân sự làm tội một lần nữa về một việc mới, thì bản án đã tuyên sẽ hủy đi, coi như không có. Nếu trong 5 năm ấy, tội nhân bị kết án một lần nữa trước một tòa án quân sự thì bản án treo sẽ đem thi hành”.
Bộ Luật Hình sự năm 1985 tại Điều 44. Bộ Luật hình sự năm 1999 tại Điều 60 và Điều 65 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 cũng quy định về án treo.
Tuy nhiên, các Sắc lệnh của Chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà cũng như các bộ luật hình sự năm 1985, 1999, và năm 2015 chưa có khái niệm về án treo mà chỉ mới quy định về điều kiện áp dụng án treo trong khi Tòa án xét xử các vụ án hình sự. Chỉ khi Nghị quyết số: 02/2018/NQ-HĐTP, ngày 15 tháng 05 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ Luật Hình sự về án treo ra đời thì mới có được khái niệm đầy đủ về án treo.
Điều 1 Nghị quyết số: 02/2018/NQ-HĐTP, ngày 15 tháng 05 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù”.
Vậy án treo có phải là hình phạt hay không, trước đây có quan điểm cho rằng án treo là một loại hình phạt. Hiện nay quan điểm đó đã không được thừa nhận, các nhà khoa học pháp lý đều cho rằng án treo không phải là hình phạt bởi vì nó không nằm trong hệ thống hình phạt được quy định tại Điều 28 của bộ luật hình sự năm 1999 và Điều 32 Bộ luật hình sự năm 2015 mà án treo được quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự 1999 và Điều 65 Bộ luật hình sự 2015.
Như vậy, trên cơ sở khái niệm về án treo được quy định tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù.
Vì vậy khi áp dụng án treo phải căn cứ vào Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 và nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, ngày 15 tháng 05 năm 2018 và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP, ngày 15 tháng 4 năm 2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP của HĐTP TAND tối cao và các quy định của pháp luật có liên quan.
Theo đó các điều kiện để xét cho hưởng án treo bao gồm:
Một là, bị xử phạt tù không quá 3 năm
Đây là căn cứ đầu tiên để Tòa án xác định có được hưởng án treo hay không. Không quá 3 năm ở đây là mức phạt tù mà đáng lẽ người đó phải chịu, không phụ thuộc vào loại tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. Cũng có nghĩa là người bị Tòa án tuyên phạt trên 3 năm tù thì nhất thiết không được xét cho hưởng án treo.
Tuy nhiên, trường hợp người bị xét xử cùng một lần về nhiều tội mà tổng hình phạt tù dưới 3 năm thì vẫn không được hưởng án treo trừ trường hợp người dưới 18 tuổi.
Hai là, có nhân thân tốt
Theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP thì người bị xử phạt tù có nhân thân tốt là ngoài lần phạm tội này, người phạm tội chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.
Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà tính đến ngày phạm tội lần này đã quá thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo;
Đối với người bị kết án mà khi định tội đã sử dụng tình tiết “đã bị xử lý kỷ luật” hoặc “đã bị xử phạt vi phạm hành chính” hoặc “đã bị kết án” và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
Đối với người bị kết án mà vụ án được tách ra để giải quyết trong các giai đoạn khác nhau (tách thành nhiều vụ án) và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
Ba là, về tình tiết giảm nhẹ
Có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự 2015. Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015.
Quy định này thể hiện tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội không cao, nên có thể được xem xét cho hưởng án treo.
Bốn là, có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định
- Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo.
- Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Quy định này xuất phát từ quy định nếu một người được xét cho hưởng án treo thì trong bản án Tòa án phải quyết định giao người được hưởng án treo cho chính quyền cấp xã nơi người được hưởng án treo cư trú hoặc làm việc để giám sát việc chấp hành án.
Năm là, xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù
Nếu Tòa án xét thấy người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội thì Tòa án sẽ xem xét cho họ hưởng án treo.
Sáu là, không thuộc các trường hợp không được hưởng án treo theo quy định tại Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ/HĐTP, ngày 15 tháng 05 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Việc lao động, học tập của người bị phạt án treo được quy định tại Điều 88 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 như sau:
- Người được hưởng án treo là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân và viên chức quốc phòng, công nhân công an, người lao động nếu được tiếp tục làm việc tại cơ quan, tổ chức thì được bố trí công việc bảo đảm yêu cầu giám sát, giáo dục, được hưởng tiền lương và chế độ khác phù hợp với công việc mà họ đảm nhiệm, được tính vào thời gian công tác, thời gian tại ngũ theo quy định của pháp luật.
- Người được hưởng án treo sẽ không bị tước quyền công dân và vẫn được phép bầu cử theo quy định tại Điều 44 Bộ luật Hình sự hiện hành và Khoản 1 Điều 29, 30 Luật Bầu cử đại biểu Quốc Hội và đại biểu Hội Đồng Nhân Dân.
Trần Mạnh Tưởng - Khoa nhà nước và pháp luật
Bản in