Hiến pháp là văn bản quy phạm pháp luật do chính Quốc hội ban hành, là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam. Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa xã hội; tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân…
Theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, thực hiện quyền lập pháp và giám sát tối cao hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng như mô hình tổ chức và hình thức hoạt động của Quốc hội ở các nhà nước là khác nhau và ngay trong một nhà nước nhưng ở các giai đoạn lịch sử khác nhau cũng có những khác biệt nhất định.
Ở Việt Nam, từ khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời cho đến nay đã có 5 bản Hiến pháp, ở mỗi bản Hiến pháp chế định về Quốc hội có sự thay đổi, bổ sung và phát triển cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng giới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Thứ nhất, về khái niệm
Hiến pháp 1946 là bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam cũng được xem là bản hiến pháp mang nhiều tư tưởng tiến bộ, tư tưởng nhân quyền và phân quyền. Về chế định Quốc hội, Hiến pháp 1946 tại chương 3 “Nghị viện nhân dân” và tại Điều 22 quy định: “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”.
Như vậy trong Hiến pháp 1946 Quốc hội được định danh là “Nghị viện nhân dân”. Với vị trí pháp lý là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013, có hiệu lực từ ngày 1/1/2014. Trên cơ sở kế thừa và phát triển các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 2013 là bước tiến mới trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp 2013 đã thể chế hóa quan điểm của Đảng tại Đại hội XI, đặc biệt là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), làm động lực cho sự phát triển đất nước bền vững theo chiều sâu trước yêu cầu mới. Chế định về Quốc hội cũng được bổ sung, phát triển cả về khái niệm và chức năng, nhiệm vụ.
Về khái niệm, theo Điều 69 Hiến pháp năm 2013 thì “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Như vậy, ngoài sự khác nhau về khái niệm Hiến pháp 2013 cũng thể hiện rõ nét hơn về tính đại diện với vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân và xác định Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước. Trong Hiến pháp 1946 chỉ xác định Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tức là chỉ xác định Nghị viện là cơ quan có quyền cao nhất của nhà nước mà không xác định là cơ quan quyền lực cao nhất.
Thứ hai, về nhiệm vụ, quyền hạn
Hiến pháp 1946 quy định, Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài. Điều thứ 23.
Nghị viện nhân dân bầu Nghị trưởng và hai Phó nghị trưởng (tương ứng với Chủ tịch và Phó Chủ tịch Quốc hội hiện nay). Bầu 12 uỷ viên chính thức, 3 uỷ viên dự khuyết để lập thành Ban thường vụ (tương ứng với Ủy ban thường vụ Quốc hội hiện nay). Điều thứ 27.
Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong Nghị viện nhân dân và phải được hai phần ba tổng số nghị viện bỏ phiếu thuận. Điều thứ 45
Phó chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong nhân dân và bầu theo lệ thường. Điều thứ 46.
Chủ tịch nước Việt Nam chọn Thủ tướng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết. Điều thứ 47.
Nghị viện kiểm soát và phê bình Chính phủ. Điều thứ 36.
Điều 69 Hiến pháp 2013 quy định Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;
Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước;
Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;
Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia.
Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật;
Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
Quyết định đại xá;
Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước;
Quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội;
Quyết định trưng cầu ý dân.
Như vậy so với Hiến pháp 1946, Hiến pháp 2013 có nhiều bổ sung và quy rõ hơn, cụ thể hơn về nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội và chỉ tập trung vào một điều (Điều 69) của chương V, còn Hiến pháp 1946 quy định ở nhiều điều khác nhau của chương 3.
Ngoài ra Hiến pháp 2013 bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội như: giám sát tối cao đối với hoạt động của bộ máy nhà nước (khoản 3 Điều 69); bầu, miễn nhiệm Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (khoản 7 Điều 69); Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (khoản 9 Điều 69); Quyết định đại xá (khoản 11 Điều 69); …
Thứ ba, về nhiệm kỳ
Nhiệm kỳ của Nghị viện nhân dân trong Hiến pháp 1946 là ba năm.
Còn Nhiệm kỳ của mỗi khóa của Quốc hội trong Hiến pháp 2013 là năm năm Điều 71.
Tựu trung lại, qua các hai bản Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 2013 của Việt Nam, chế định Quốc hội cũng có những bước sửa đổi phát triển lớn cả về vị trí, nhiệm vụ, chức năng, thẩm quyền đến cấu trúc tổ chức đều thể hiện sự kế thừa và phát triển của chế định quyền lực nhà nước quan trọng này trong cấu trúc thống nhất của toàn bộ bộ máy Nhà nước Việt Nam ở cấp Trung ương. Trong thời gian tới, với những nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến pháp nước quy định, cùng với các cơ quan, tổ chức hữu quan khác trong hệ thống chính trị, chúng ta có niềm tin mạnh mẽ rằng, Quốc hội nước Việt Nam sẽ tiếp tục thực hiện ngày càng tốt hơn vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trên cơ sở quy định của Hiến pháp, tạo tiền đề tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công cuộc Đổi mới đất nước theo chủ trương của Đảng, đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn luôn thay đổi và phát triển.
Trần Mạnh Tưởng - Khoa nhà nước và pháp luật
Bản in