tour du lich

Thống kê truy cập

Đang truy cập: {{views}}
Tổng lượt truy cập: {{totals}}
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA VIỆC BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH THÔNG QUA GIẢNG DẠY MÔN HỌC CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC 2022-10-14T01:31:00.000Z

Chủ nghĩa xã hội khoa học - một trong 3 bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin, là một trong những nội dung cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng. Giảng dạy chủ nghĩa xã hội khoa học ở các Trường Chính trị cấp tỉnh là trang bị tri thức khoa học, giúp học viên nghiên cứu nắm vững lý luận, nhất là thế giới quan khoa học và phương pháp luận sáng tạo để có hiểu biết đúng về quy luật phát triển của lịch sử, từ đó hình thành niềm tin về lý tưởng, mục tiêu cách mạng. Đồng thời môn chủ nghĩa xã hội khoa học cũng là môn học trực tiếp giáo dục niềm tin khoa học vào sự tất thắng của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột, bất công, vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vào sự thắng lợi tất yếu của công cuộc đổi mới đất nước.

 Bên cạnh việc trang bị cho học viên những kiến thức lý luận cơ bản về chủ nghĩa xã hội khoa học, giảng viên cần giúp học viên nhận diện được các quan điểm sai trái thù địch, phủ nhận CNXH khoa học thông qua những nội dung cơ bản sau:

Một là, phủ nhận sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân: Họ cho rằng, tự động hóa, trí tuệ nhân tạo thay thế công nhân, làm cho số lượng công nhân ngày càng giảm đi; CNTB đang tự điều chỉnh và tiệm tiến lên CNXH, không cần đến sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; từ chỗ phủ nhận vai trò sứ mệnh của giai cấp công nhân, họ phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Hai là, phủ nhận CNXH và con đường đi lên CNXH. Họ cho rằng, CNXH chỉ là phương tiện cứu nước, giành độc lập dân tộc, khi đạt được mục đích cần phải thay đổi phương tiện, Sự lựa chọn con đường quá độ bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH ở Việt Nam là sai lầm, đẻ non, không đi theo quy luật; Việt Nam chỉ đổi mới kinh tế mà không hề đổi mới chính trị, vẫn giữ nguyên bộ máy lãnh đạo chuyên quyền của Đảng Cộng sản. Họ phủ nhận nền dân chủ XHCN, phủ nhận Nhà nước pháp quyền XHCN, đòi thực hiện “tam quyền phân lập”…

Trên cơ sở thực tiễn và lý luận khoa học, giảng viên cần phản bác một cách có thuyết phục những quan điểm phản động, thù địch, sai trái nêu trên trong quá trình thực hiện giảng dạy phần CNXH khoa học.

Về luận điệu thứ nhất - phủ nhận sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân.

 Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với sự xuất hiện của trí tuệ nhân tạo, trong nhiều ngành công nghiệp, lao động bị thay thế bởi máy móc tự động hóa. Nhìn bên ngoài tưởng như giai cấp công nhân đã “teo” đi. Nếu hiểu theo nghĩa là những người trực tiếp vận hành máy móc trong các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng… thì ở một số nơi, một số ngành nhất định, về hình thức giai cấp công nhân có giảm đi nhưng thực chất địa vị xã hội của họ không hề thay đổi. Mặt khác, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang chuyển những ngành nghề lao động nặng nhọc, vất vả, nguy hiểm, thu nhập thấp, gây ô nhiễm môi trường từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển, số lượng công nhân truyền thống trong các nước công nghiệp phát triển có giảm xuống, nhưng ở các nước đang phát triển, giai cấp công nhân tăng lên, nhất là khi các nước đang phát triển, chậm phát triển bước vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Trong phương thức sản xuất TBCN, cho đến thời điểm hiện tại, người lao động hàng đầu vẫn là giai cấp công nhân. Từ đó cho thấy, không thể cho rằng cuộc cách mạng này gắn với đội ngũ trí thức. Sự phát triển của khoa học công nghệ đặt ra yêu cầu khách quan giai cấp công nhân phải nâng cao năng lực, kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ lao động. Do đó, quan điểm, giai cấp công nhân vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của nền công nghiệp của chủ nghĩa Mác - Lênin là không thay đổi. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư không làm thay đổi địa vị của giai cấp công nhân trong phương thức sản xuất tư bản nói riêng, xã hội nói chung. Giai cấp công nhân vẫn là những người mà cuộc sống của họ phụ thuộc vào việc bán sức lao động trên thị trường, họ không có tiếng nói quyết định trong sản xuất, phân phối sản phẩm. Vì thế, công nhân vẫn là người đi đầu trong các cuộc đấu tranh vì hòa bình, dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội.

Những điều chỉnh của CNTB hiện đại, nếu nhìn nhận một cách trực quan, nó đã khoác trên mình nó một bộ áo mới và bộ áo đó đã phần nào che đậy được một số khuyết tật cố hữu của nó. Tuy vậy, mâu thuẫn cố hữu của CNTB không thể thay đổi. Có điều chỉnh, cải tiến như thế nào thì đó vẫn là một nghịch lý nan giải của quan hệ tư bản. Đó là: 1) Xu hướng xã hội hóa đang phát triển nhưng sở hữu tư nhân của giới chủ vẫn đang chi phối; 2) Công nhân có tham gia quản lý như thế nào thì cho đến nay ý chí tối thượng cuối cùng vẫn ở các ông chủ tư bản giàu có; 3) Nhà nước có phân phối lại thì vẫn ưu tiên trước hết vì lợi ích của giới chủ, thân phận của người lao động vẫn là thân phận làm thuê, phụ thuộc vào giới chủ; 4) Có nâng cao được mức sống của đa số người nhưng tỷ lệ bóc lột và bất bình đẳng vẫn tăng chứ không giảm.

Về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam: Đảng không chỉ là “đội tiên phong của giai cấp công nhân”, mà hơn thế nữa, Đảng “đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Những thành tựu đã đạt được qua hơn 36 năm đổi mới đã chứng minh cho đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng. Do đó, những luận điệu phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân để đi đến phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản là chủ quan, duy ý chí, hoàn toàn không có căn cứ cả về lý luận và thực tiễn.

Về luận điệu thứ hai - phủ nhận CNXH và con đường đi lên CNXH

Về cơ sở lý luận, chúng ta thấy rõ sự khác biệt căn bản giữa CNXH không tưởng và CNXH khoa học. Sự ra đời của ba phát kiến vĩ đại của C.Mác: chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết giá trị thặng dư và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã giúp khắc phục những hạn chế trên và đưa CNXH từ không tưởng thành khoa học. Do đó, không thể đồng nhất CNXH khoa học với CNXH không tưởng.

Về cơ sở thực tiễn, trước hết, phải thấy rằng, CNXH đã là một hiện thực trong lịch sử và hiện vẫn đang là một hiện thực không thể phủ nhận. Cho đến nay, công cuộc cải cách, đổi mới ở các nước XHCN như Trung Quốc, Việt Nam, Lào… và tinh thần CNXH thế kỷ XXI ở các nước Mỹ Latinh… đang chứng minh cho lý tưởng xã hội XHCN vẫn có sức sống trường kỳ cùng nhân loại.

Đặc biệt, cần nhận thức rõ, nguyên nhân cho sự sụp đổ mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu không phải vì sai lầm của học thuyết Mác - Lênin mà vì những nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng đã xa rời hoặc nhận thức sai lầm những nguyên lý cơ bản chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tế cho thấy, trong quá trình cải tổ, cải cách, đổi mới, nước nào biết vận dụng sáng tạo những nguyên tắc, nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, của CNXH khoa học thì hạn chế được những khuyết tật, giữ vững được CNXH, đạt được nhiều thành tựu trong xây dựng xã hội mới.

Thực tiễn cho thấy, sau khi thống nhất, nước ta đối diện với rất nhiều khó khăn thách thức do chiến tranh để lại. Nhờ kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH nên trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt sau 35 năm đổi mới. Vì thế, quan điểm cho rằng CNXH chỉ là phương tiện cứu nước, giành độc lập dân tộc, khi đạt được mục đích cần phải thay đổi phương tiện là hoàn toàn vô căn cứ. Bởi lẽ, khi Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước theo tiếng gọi “Tự do, bình đẳng, bác ái” của cách mạng tư sản, với mong muốn sang các nước tư bản phát triển học hỏi những yếu tố tiến bộ để về giúp đồng bào thực hiện công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Nhưng Người nhận ra, đó là những cuộc cách mạng vĩ đại, nhưng chưa đến nơi, vì cách mạng thành công chỉ đem lại lợi ích cho thiểu số giai cấp, còn đông đảo quần chúng lao động vẫn chịu cảnh áp bức, bóc lột. Cho nên, nếu lựa chọn con đường cách mạng tư sản này cùng lắm chỉ giải phóng được dân tộc, nhưng nhân dân vẫn bị áp bức, vẫn phải chịu kiếp ngựa trâu, thì độc lập dân tộc sẽ chẳng có nghĩa lý gì.

Khi tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng đã chủ trương kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Xác định nhiệm vụ đổi mới, phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Nhận thức rõ rằng, chính trị là lĩnh vực rất quan trọng đối với một quốc gia, một chế độ, lại là vấn đề rất nhạy cảm; vì vậy, đổi mới chính trị, phải tiến hành từng bước vững chắc, thận trọng, không thể hấp tấp, vội vàng. Vấn đề nào đã rõ thì quyết tâm đổi mới, vấn đề chưa rõ phải tiếp tục nghiên cứu.

Ngoài ra, các quan điển phủ nhận dân chủ XHCN thực chất là chúng đả kích hòng xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, chủ trương thành lập đa nguyên, đa đảng đối lập. Trên thực tế, những vấn đề này được Đảng xử lý rất thấu đáo, các tôn giáo, dân tộc chung sống hòa bình trong một quốc gia, dân chủ được thực hiện sâu rộng.

Thông qua giảng dạy, chúng ta cần làm cho học viên hiểu được CNXH khoa học dù có nhiều giá trị bền vững cho đến ngày nay nhưng không phải không có những điểm cần được bổ sung, phát triển. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần bổ sung, phát triển CNXH ở một số điểm cơ bản như sau:

So với thời kỳ C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, hiện nay giai cấp công nhân đã có sự biến đổi rất lớn. Tình hình đó đặt ra cho công tác tư tưởng lý luận phải tiếp tục nghiên cứu về lý luận những vấn đề thực tiễn đang đặt ra. Đặc biệt là thực trạng về số lượng, chất lượng, cơ cấu, vai trò khách quan của giai cấp công nhân.

Trên thực tiễn các nước phát triển cả hai nhóm: “công nhân - tri thức” và “trí thức - công nhân” và chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong cơ cấu xã hội. Đây cũng là tính quy luật của sự phát triển nhân lực ở tất cả các nước và chính là biểu hiện của tính quy luật “xích lại gần nhau” giữa các giai tầng, trong quá trình phát triển tất yếu tiến tới xã hội không còn giai cấp, như học thuyết Mác - Lênin đã dự báo khoa học về tương lai xa của nhân loại.

Chủ nghĩa tư bản còn khả năng phát triển kinh tế - xã hội, nhất là chuyển sản xuất sang chiều sâu như hiện nay. Sở hữu tư nhân, lợi ích tư nhân vẫn còn là động lực lâu dài của phát triển kinh tế nói chung nhưng sự thích ứng của CNTB hiện đại, thông qua những điều chỉnh như đã nêu, không vượt được giới hạn lợi ích tư sản.

Khi bàn về CNXH, cần chú ý ba khía cạnh, ba nội hàm, ba tư cách của chủ nghĩa xã hội. Đó là CNXH như một học thuyết, một phong trào và một chế độ. Bởi vì, nếu ai đó chỉ nhìn CNXH như một phong trào thì dễ bị dao động vì sự “đi lên hay đi xuống” của phong trào đó. Nếu chỉ nhìn CNXH như một học thuyết thì dễ thấy nó bị “xơ cứng, giáo điều, lạc hậu”. Còn nếu nhìn nó như một chế độ thì có thể thực tiễn ở Liên Xô và các nước Đông Âu làm cho người ta dễ hoài nghi.

Như vậy, để bảo vệ chủ nghĩa xã hội khoa học thông qua giảng dạy một mặt chúng ta cần giúp học viên nhận diện những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, đấu tranh bác bỏ các quan điểm đó; mặt khác chúng ta cần phải mạnh dạn đề xuất bổ sung, phát triển những quan điểm của học thuyết cho phù hợp với thực tiễn. Việc bổ sung, phát triển đó không phải là “xét lại” chủ nghĩa xã hội khoa học, cũng không phải là làm lu mờ chân giá trị của chủ nghĩa xã hội khoa học mà là làm cho những nội dung, quan điểm của học thuyết có thêm sức sống mới, phù hợp với giai đoạn hiện nay. Mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, giảng viên giảng dạy chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng cần kiên định và tuyên truyền tính đúng đắn khoa học, giá trị thời đại của học thuyết này cho đội ngũ cán bộ cơ sở để góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

                                                                                            Th.S Võ Thị Lý

                                                                                         Khoa Lý luận cơ sở


Bản in

 

Tin đã đưa