tour du lich

Thống kê truy cập

Đang truy cập: {{views}}
Tổng lượt truy cập: {{totals}}
Quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và chính trị từ Đại hội VI đến nay 2020-12-29T03:18:00.000Z

Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội đất nước, là sự thể hiện tập trung nhất mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Vì lẽ đó, việc nhận thức và vận dụng quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng vào giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và chính trị là nội dung cốt lõi nhất, quan điểm cơ bản nhất của đường lối đổi mới của Đảng ta.

Từ Đại hội VI đến nay, trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, Đảng ta đã đề ra những quan điểm đúng đắn, phù hợp trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và chính trị. Quan điểm của Đảng ta là phải đổi mới đồng bộ và toàn diện, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đổi mới chính trị phải thận trọng từng bước, theo yêu cầu của đổi mới kinh tế. Tính đồng bộ, toàn diện trong đổi mới kinh tế và chính trị thể hiện tư tưởng không tuyệt đối hóa, tách rời giữa kinh tế và chính trị. Trong tính toàn diện đó, Đảng ta xác định vị trí giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị không ngang bằng nhau. Lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, Đảng ta đã thể hiện vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị; đổi mới chính trị phải thận trọng, từng bước phù hợp với yêu cầu của kinh tế. Như vậy, đổi mới chính trị không tách rời đổi mới kinh tế, mà theo yêu cầu và đặc điểm tiến trình phát triển của kinh tế. Quan điểm này được thể hiện cụ thể như sau:

Đại hội VI (1986) xác định sự nghiệp đổi mới bắt đầu từ đổi mới kinh tế đến đổi mới chính trị và các lĩnh vực khác. Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Hội nghị lần 6 Ban Chấp hành Trung ương (Khóa VI) đã chỉ rõ: “Chúng ta tập trung sức làm cho tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới.[1]

Đại hội VII của Đảng khẳng định “Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của Nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên việc đổi mới hệ thống chính trị nhất thiết trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị,dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì thế mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị…”[2]

Tiếp tục tinh thần Đại hội VII về nhận thức và giải quyết quan hệ giữa đổi mới kinh tế và chính trị, Đại hội VIII của Đảng khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”[3]. Đây là một quan điểm hoàn toàn đúng đắn khi Đảng tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội.

Tiếp tục tinh thần đó của Đại hội VIII, Đại hội IX của Đảng ra nghị quyết về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 và đã xác định một trong những quan điểm cần quán triệt là: “Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực giải phóng và phát huy mọi nguồn lực. Tiếp tục đổi mới sâu rộng, đồng bộ về kinh tế, xã hội và bộ máy nhà nước hướng vào hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, tạo động lực và nguồn lực phát triển nhanh, bền vững”[4]

Đến Đại hội X (2006), Đảng ta đã tổng kết 20 năm đổi mới và rút ra một trong các bài học kinh nghiệm là: “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội”[5]

Đại hội XI của Đảng tiếp tục tinh thần các Đại hội trước và đã đưa ra quan điểm về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi mới toàn diện và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lấy việc thực hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển”. [6]

Tại Đại hội XII của Đảng, bên cạnh đánh giá những thành quả quan trọng mà chúng ta đã đạt được trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và cũng đã nghiêm khắc chỉ ra một số hạn chế cần khắc phục, Đảng ta coi việc tiếp tục quán triệt và xử lý các mối quan hệ lớn (trong đó có quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị) là một trong 12 nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước trong 5 năm tới. Đảng xác định: “Kế thừa và phát huy những thành tựu, bài học kinh nghiệm của 30 năm đổi mới, nhất là 5 năm gần đây, tiếp tục thực hiện có hiệu quả các phương hướng, nhiệm vụ đã được đề ra trong các nghị quyết của Đảng, đồng thời đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị”[7]

Qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Những kết quả của những thành tựu quan trọng trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là Đảng ta đã nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.  Đồng thời, những thành tựu đó đã tạo tiền đề, nền tảng quan trọng và là động lực để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

Người viết: Phạm Văn Dũng

                                                                               Khoa: Lý luận cơ sở


[1] ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu, BCH Trung ương, khóa VI

[2] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, H.1991, tr.54

[3] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. CTQG, H.1996, tr.14

[4] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, H.2001, tr.165 -166

[5] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, H.2006, tr.70 - 71

[6] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, H.2011, tr.99 - 100

[7] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, H.2016, tr.76


Bản in

 

Tin đã đưa